Tính năng: Bắt đầu từ khu vực địa phương! Hiện tại các công ty Nhật Bản đang mở rộng sang Châu Á và Châu Đại Dương70% các công ty Nhật Bản gia nhập Việt Nam có kế hoạch mở rộng kinh doanh và có những phong trào để có được nhu cầu trong nước
ngày 26 tháng 4 năm 2019
Việt Nam đã trở thành mục tiêu quan tâm từ các công ty Nhật Bản, với số lượng phê duyệt đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản đến Việt Nam đạt mức cao kỷ lục vào năm 2018. Với nhiều khoản đầu tư bổ sung từ các công ty Nhật Bản có trụ sở tại Việt Nam, tình hình quản lý thực tế của các công ty Nhật Bản ở Việt Nam là gì? Bài viết này sẽ giải thích kết quả của cuộc khảo sát năm 2018 về các công ty Nhật Bản vào Châu Á và Châu Đại Dương (sau đây gọi là Khảo sát của Công ty Nhật Bản) được thực hiện từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2018.
Trong cuộc khảo sát về các công ty Nhật Bản, 787 công ty Nhật Bản đã trả lời, số lượng cao nhất ở Việt Nam. Theo khu vực, có 424 công ty ở phía bắc, 28 công ty ở khu vực trung tâm và 335 công ty ở khu vực phía Nam. Theo ngành, có 418 nhà sản xuất và 369 công ty phi sản xuất. So với khảo sát trước đây, số lượng phản hồi từ các ngành công nghiệp phi sản xuất đã tăng lên, nhưng so với cả nước được khảo sát, Việt Nam có tỷ lệ sản xuất cao hơn. Theo quy mô của công ty, có 373 công ty lớn và 414 doanh nghiệp vừa và nhỏ, và so với cả nước được khảo sát, Việt Nam có tỷ lệ cao hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cơ sở Việt Nam sẽ mở rộng kinh doanh của mình
65,3% các công ty trả lời rằng họ "có lợi nhuận", với 12,7% về triển vọng lợi nhuận hoạt động cho năm 2018 và 22,0% về "trạng thái cân bằng". Nhìn vào ngành công nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận cho sản xuất được xử lý xuất khẩu (sau đây gọi là EPE) ở mức cao là 69,1%. Theo khu vực, tỷ lệ phần trăm của các công ty ở miền Bắc có lợi nhuận cao 67,9%, vượt qua khu vực phía nam trong ba năm qua.
So sánh tỷ lệ lợi nhuận theo năm thành lập, khoảng 80% link vao m88 được thành lập trước năm 2010 có lợi nhuận ổn định. Hơn nữa, ba năm đã trôi qua kể từ khi thành lập, hơn một nửa link vao m88 đã có lợi nhuận, đó là xu hướng tương tự cho cả ngành sản xuất và phi sản xuất.
Liên quan đến hướng mở rộng kinh doanh trong 1-2 năm tới, Việt Nam có kế hoạch "mở rộng" 69,8%các công ty bị đơn, tỷ lệ cao hơn so với các nước láng giềng như Malaysia (54,0%), Philippines (52,4%), Thái Lan (52,2%), Indonesia (49,2%). Những lý do chính cho việc mở rộng doanh nghiệp đã tăng doanh số bán hàng tại thị trường địa phương, tăng doanh số do xuất khẩu tăng và tiềm năng tăng trưởng cao.
Tìm kiếm theo năm thành lập, 72,6% các công ty được thành lập từ năm 2011 có chính sách "mở rộng", trong khi 67,1% các công ty được thành lập trước năm 2010 có chính sách "mở rộng". Ngay cả các công ty đã mở rộng sang Việt Nam trong một thời gian dài được cho là vẫn nhận ra rằng các căn cứ của họ ở nước này vẫn có lợi thế. Trên thực tế, xem xét các số liệu thống kê về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vào năm 2018, các khoản đầu tư quy mô lớn từ Nhật Bản đã được tạo thành từ các công ty Nhật Bản với các căn cứ trong nước và số lượng các công ty đang ngày càng thiết lập các căn cứ mới trong các bộ địa phương trong nước. Việc tổng số phần trăm các công ty phản ứng "giảm" và "di dời hoặc rút lui sang một quốc gia thứ ba" chỉ là 1,5%, có thể được cho là một dấu hiệu cho thấy hiệu suất tốt của các căn cứ của Việt Nam.

Nguồn: "Khảo sát về tình hình thực tế của các công ty Nhật Bản mở rộng sang Châu Á và Châu Đại Dương" (Jetro)
Rủi ro bị giảm, nhưng các vấn đề phát sinh trong hoạt động chưa phát triển và không chắc chắn của hệ thống pháp lý
Nhìn vào năm rủi ro hàng đầu trong môi trường đầu tư của Việt Nam, mặc dù những cải tiến tổng thể đã được quan sát, tỷ lệ phản hồi cho các mục "hoạt động chưa hoàn thành và không rõ ràng của hệ thống pháp lý" tăng từ năm trước, nêu bật vấn đề này (xem Bảng 1). Điều này là do các trường hợp các công ty Nhật Bản đấu tranh để giải quyết vấn đề, chẳng hạn như nghĩa vụ đăng ký bảo hiểm xã hội cho người nước ngoài, việc thu thập các quỹ thảm họa tự nhiên và ban hành Đạo luật An ninh mạng và dường như không có cải tiến nào đạt được. Mặt khác, tỷ lệ phản hồi cho "cơ sở hạ tầng không chuẩn bị (điện, hậu cần, truyền thông, v.v.), đã nằm trong năm loại hàng đầu cho đến nay, đã giảm từng năm và có xu hướng cải thiện.
Bảng 1: Rủi ro đầu tư ở Việt Nam (5 mục hàng đầu, nhiều câu trả lời)
Xếp hạng | Mục trả lời | Tỷ lệ phản hồi |
---|---|---|
1 | Chi phí lao động tăng | 58.5 |
2 | Hoạt động chưa phát triển và không rõ ràng của hệ thống pháp lý | 48.4 |
3 | Cơ sở hạ tầng chưa chuẩn bị (Điện, Hậu cần, Truyền thông, v.v.) | 44.4 |
4 | Bản chất phức tạp của các thủ tục hành chính (cấp phép, v.v.) | 41.8 |
5 | Bản chất phức tạp của các hệ thống thuế và thủ tục thuế | 38.5 |
Xếp hạng | Mục trả lời | Tỷ lệ phản hồi |
---|---|---|
1 | Tăng chi phí lao động | 61.6 |
2 | Hoạt động chưa phát triển và không rõ ràng của hệ thống pháp lý | 46.9 |
3 | Bản chất phức tạp của các hệ thống thuế và thủ tục thuế | 42.0 |
4 | Bản chất phức tạp của các thủ tục hành chính (cấp phép, v.v.) | 39.5 |
5 | Cơ sở hạ tầng chưa chuẩn bị (Điện, Hậu cần, Truyền thông, v.v.) | 38.2 |
Xếp hạng | Mục trả lời | Tỷ lệ phản hồi |
---|---|---|
1 | Tăng chi phí lao động | 60.4 |
2 | Hoạt động chưa phát triển và không rõ ràng của hệ thống pháp lý | 48.2 |
3 | Bản chất phức tạp của các hệ thống thuế và thủ tục thuế | 40.2 |
4 | Bản chất phức tạp của các thủ tục hành chính (cấp phép, v.v.) | 37.8 |
5 | Tỷ lệ doanh thu nhân viên cao | 36.2 |
Nguồn: "Khảo sát về tình hình thực tế của các công ty Nhật Bản mở rộng sang Châu Á và Châu Đại Dương" (Jetro)
Nhìn vào năm vấn đề quản lý hàng đầu tại Việt Nam, hơn 50% số người được hỏi đã trả lời "cải thiện tiền lương của nhân viên", "khó khăn trong việc mua sắm tại địa phương và các bộ phận" và "khó kiểm soát chất lượng", nhưng vào năm 2018 đã có những cải thiện nhỏ trong mỗi năm trước. Mặt khác, tỷ lệ người chỉ ra sự gia tăng của các đối thủ cạnh tranh (cạnh tranh về chi phí) đã tăng lên trong ba năm qua. Người ta ước tính rằng cạnh tranh trong Việt Nam đang trở nên nghiêm trọng hơn do sự gia tăng của Nhật Bản và các công ty nước ngoài khác bước vào cùng một ngành, và sự phát triển của các công ty địa phương.
Bảng 2: Các vấn đề quản lý của Việt Nam (5 mục hàng đầu, nhiều câu trả lời)
Xếp hạng | Mục trả lời | Tỷ lệ phản hồi |
---|---|---|
1 | Tiền lương của nhân viên tăng | 75.5 |
2 | Khó khăn trong việc mua sắm tại địa phương nguyên liệu và các bộ phận | 64.8 |
3 | Khó khăn trong kiểm soát chất lượng | 58.6 |
4 | Giải phóng mặt bằng và các quy trình khác rất phức tạp | 47.5 |
5 | Sự gia tăng của các đối thủ cạnh tranh (cạnh tranh về chi phí) | 45.7 |
Xếp hạng | Mục trả lời | Tỷ lệ phản hồi |
---|---|---|
1 | Tiền lương của nhân viên tăng | 75.2 |
2 | Khó khăn trong việc mua sắm tại địa phương nguyên liệu và các bộ phận | 65.2 |
3 | Khó khăn trong kiểm soát chất lượng | 57.2 |
4 | Chất lượng nhân viên | 46.7 |
5 | Giải phóng mặt bằng và các quy trình khác rất phức tạp | 46.7 |
Xếp hạng | Mục trả lời | Tỷ lệ phản hồi |
---|---|---|
1 | Tiền lương của nhân viên tăng | 73.0 |
2 | Khó khăn trong việc mua sắm tại địa phương nguyên liệu và các bộ phận | 58.0 |
3 | Khó khăn trong kiểm soát chất lượng | 54.7 |
4 | Sự gia tăng của các đối thủ cạnh tranh (cạnh tranh về chi phí) | 49.5 |
5 | Giải phóng mặt bằng và các quy trình khác rất phức tạp | 45.7 |
Lưu ý: Theo một cuộc khảo sát năm 2017, "sự gia tăng của các đối thủ cạnh tranh (đối thủ cạnh tranh về chi phí)" là 46,1%.
Nguồn: "Khảo sát về tình hình thực tế của các công ty Nhật Bản mở rộng sang Châu Á và Châu Đại Dương" (Jetro)
Tỷ lệ mua sắm từ link vao m88 địa phương thấp, nhưng tỷ lệ mua sắm địa phương được cải thiện
của "các nguồn bán nguyên liệu và các bộ phận" của các công ty Nhật Bản mở rộng sang Việt Nam, tỷ lệ "địa phương" là 36,3%, tăng so với năm trước (33,2%). Tỷ lệ mua sắm địa phương của đất nước đã tăng dần kể từ năm 2010, lần đầu tiên vượt qua Malaysia (36,1%). Tuy nhiên, so với Trung Quốc (66,3%), Thái Lan (57,2%) và Indonesia (42,0%), tỷ lệ mua sắm địa phương ở Việt Nam có thể được cho là vẫn còn thấp (xem Hình 2). Theo ngành, tỷ lệ mua sắm địa phương cho các nhà sản xuất sản phẩm kim loại cao ở mức 46,0%, trong khi tỷ lệ mua sắm địa phương cho các nhà sản xuất thiết bị điện và cơ điện tử thấp ở mức 22,8%. Tỷ lệ mua sắm địa phương cho các nhà sản xuất thiết bị liên quan đến ô tô và xe máy là 37,6%.

Nguồn: "Khảo sát về tình hình thực tế của các công ty Nhật Bản mở rộng sang Châu Á và Châu Đại Dương" (Jetro)
Sự cố của các công ty mua sắm địa phương tại Việt Nam là các công ty Nhật Bản đã tham gia (47,0%), các công ty địa phương (39,7%) và các công ty nước ngoài khác (13,3%), với việc mua sắm nhiều hơn từ các công ty Nhật Bản đã tham gia thị trường so với các công ty địa phương. Tỷ lệ mua sắm từ các công ty địa phương chiếm tổng số lượng nguyên liệu và bộ phận thô chỉ là 14,4%, mức thấp hơn so với Trung Quốc (41,3%), Thái Lan (23,3%), Malaysia (20,4%) và Indonesia (19,5%).
Một đặc điểm khác của các nhà cung cấp địa phương của Việt Nam là tỷ lệ của các công ty nước ngoài khác cao hơn so với các quốc gia khác. Sự cố mua sắm từ các công ty nước ngoài khác có trụ sở tại Việt Nam là các công ty Đài Loan là 48,8%, các công ty Hàn Quốc là 19,2%, các công ty ASEAN là 12,0%và các công ty Trung Quốc là 7,8%, với việc mua sắm tương đối lớn từ các công ty Đài Loan. Tuy nhiên, so với năm trước, việc mua sắm từ các công ty Đài Loan đã giảm 10,6 điểm, trong khi việc mua sắm từ các công ty Hàn Quốc đã tăng 9,9 điểm. Khi các khoản đầu tư của các công ty Hàn Quốc vào các lĩnh vực hỗ trợ như các nhà cung cấp liên quan đến điện tử Samsung và LG tăng lên, người ta ước tính rằng tiềm năng của họ là đối tác kinh doanh cho các công ty Nhật Bản đang tăng lên.
Chuyển động với dự đoán tăng thêm mức lương
Theo khảo sát của các công ty Nhật Bản, tỷ lệ tăng lương ở Việt Nam từ năm 2017 đến 2018 là 7,4%, giảm so với khảo sát trước đó (8.4%) (thứ 7 trên 19 quốc gia).
Mức lương cơ bản (hàng tháng) cho sản xuất và công nhân Việt Nam là $ 227, ít hơn một nửa so với 493 đô la tại Trung Quốc, có thể được cho là một trong những yếu tố thu hút đầu tư sản xuất như Trung Quốc cộng với một. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, thứ hạng số một là "tăng chi phí lao động" trong rủi ro môi trường đầu tư của Việt Nam và "tăng lương của nhân viên" về các vấn đề quản lý. Tôi cũng đã nghe nói rằng số lượng công nhân tập trung tại thời điểm tuyển dụng đã giảm từ khu công nghiệp gần Hà Nội. Theo một cuộc khảo sát của các công ty Nhật Bản, tỷ lệ các công ty Nhật Bản tại Việt Nam phản ứng rằng họ là IoT (Internet of Things) và robot là công nghệ kỹ thuật số đang được coi là sử dụng từ trung bình đến dài hạn cao hơn toàn bộ quốc gia được khảo sát. Trên thực tế, có những báo cáo rằng một phần của dây chuyền sản xuất đã được tự động hóa trong ngành sản xuất và ước tính ngày càng có nhiều công ty xem xét giới thiệu các quy trình sản xuất không dựa vào lực lượng lao động rẻ tiền. Liên quan đến mức lương cơ bản hàng tháng cho các nhà quản lý, phi sản xuất là $ 1,243, so với $ 931 cho các công việc sản xuất, không sản xuất, tiếp tục có mức lương cao hơn.
Ngay cả tại các cơ sở xuất khẩu, doanh số bán nhu cầu trong nước
Liên quan đến tỷ lệ xuất khẩu so với bán hàng, tại Việt Nam, tỷ lệ các công ty Nhật Bản trả lời rằng họ "xuất khẩu 100%" là 25,3%, cao hơn so với các quốc gia khác, nhưng tỷ lệ xuất khẩu giảm 1,9 điểm so với năm trước (xem Hình 3). Điều này được ước tính là kết quả của thực tế là tại Việt Nam, số lượng các công ty phi sản xuất đã vượt quá số lượng các công ty sản xuất trong những năm gần đây.

Nguồn: "Khảo sát về tình hình thực tế của các công ty Nhật Bản mở rộng sang Châu Á và Châu Đại Dương" (Jetro)
Mặt khác, trong ngành sản xuất, sự chú ý đã tập trung vào nhu cầu trong nước của Việt Nam, và ngày càng có những trường hợp ngày càng tăng trong đó các công ty EPE, cho rằng họ sẽ được xử lý và xuất khẩu ở nước này, cũng đang làm việc về bán hàng trong nước. Theo khảo sát này về các công ty Nhật Bản, 40% các công ty trả lời rằng họ đang bán trong nước mặc dù là EPE và 23,8% trả lời rằng họ đang xem xét bán trong nước trong tương lai, cho thấy không chỉ không sản xuất, mà cả các ngành sản xuất đang tiến lên để thu hút nhu cầu trong nước. Khi EPE bán trong nước, các thủ tục thuế và thuế mới sẽ được yêu cầu, và quản lý sản phẩm cũng sẽ trở nên phức tạp và một số công ty dường như tìm thấy những bất lợi của hải quan được chỉ ra bởi hải quan và các thủ tục phức tạp, nhưng theo khảo sát, 22,1% các công ty bán trong nước phản ứng rằng không có bất lợi cụ thể.

- Giới thiệu tác giả
- Văn phòng Jetro Hà Nội
sho hiromitsu - Jetro tham gia vào năm 2010. Sau khi làm việc tại Phòng quản lý văn phòng ở nước ngoài (2010-2012), Trung tâm thông tin thương mại Yokohama (2012-2014), Văn phòng Jetro Vientiane (Lào) (2015-2016) và Bộ phận quan hệ công chúng (2016-2018)